DÒNG HỌ GIA ĐÌNH HỒ TIÊU
Dòng họ gia đình Hồ Tiêu không đông đảo lắm. Đó là một gia đình nổi tiếng cay nồng gốc ở vùng nhiệt đới hay bán nhiệt đới trên thế giới. Hồ Tiêu là một hương liệu quí giá đối với cư dân sống trong vùng khí hậu ôn đới và hàn đới. Vào thời thượng cổ người Âu Châu rất quí quế và hồ tiêu. Hai hương liệu này đến từ Ấn Độ qua trung gian các nước Trung Đông.
Vào thời Trung Cổ các hải cảng của Ý nhất là Venice trở nên trù phú nhờ giao dịch với các thương nhân Á Rập. Các thương nhân nầy bán tơ lụa Trung Hoa, một loại tơ lụa đặc biệt được người Âu Châu trân quí và hương liệu mua từ Ấn Độ.
Con đường xuyên sa mạc nối liền Trung Đông tức miền đông Địa Trung Hải với Trung Hoa là Tơ Lụa (Silk Road).
Đường biển hướng về Ấn Độ là Đường Hương Liệu (Spice Road). Thời ấy chưa có kinh đào Suez nên tàu buồm phải dùng một hải trình xa xôi và nguy hiểm nối liền Đại Tây Đương với Ấn Độ Dương xuyên qua Cap de Bonne Esperance (Mũi Hảo Vọng) trên đường đến Ấn Độ.
Hương liệu là hột, trái, vỏ, củ có hương thơm và cay nồng. Vài loại hương liệu có tính sát trùng được dùng trong y học trị liệu, kỹ nghệ mỹ phẩm, nghi thức tôn giáo ngoài công dụng thông thường là dùng trong việc nấu nướng. Hương liệu gồm: gừng, nghệ, riềng, quế, đậu khấu, đinh hương, hồi hương, hồ tiêu, tiêu lốt, tiêu chuỗi hay tiêu Java vì có nhiều ở Java ( cubeba).
Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh là những quốc gia sớm phát triển hàng hải. Tàu bè Bồ Đào Nha rồi Hòa Lan và Anh sớm đến Nam Á rồi Đông Nam Á nơi có nhiều hương liệu. Các quốc gia trên sớm làm giàu nhờ bán hương liệu trên lục địa Âu Châu. Bồ Đào Nha chiếm một phần Indonesia trước khi bị Hòa Lan đánh bại. Quần đảo Indonesia trở thành thuộc địa của Hòa Lan. Anh chiếm Ấn Độ. Indonesia và Ấn Độ là hai quốc gia to lớn sản xuất nhiều hương liệu trên thế giới.
Bài viết này chỉ để cập đến họ tiêu và dòng họ gia đình Hồ Tiêu. Trầu, tiêu lốt, lá lốt, rau càng cua đều thuộc gia đình của Hồ Tiêu. Lá trầu, lá tiêu sọ, lá tiêu lốt, lá lốt đều hao hao giống nhau. Lá trầu láng, to hình trái tim màu xanh- vàng; lá tiêu hay lá lốt nhỏ hơn lá trầu. Lá láng màu xanh sẫm.
Trầu ăn không được nhưng có một vai trò đặc biệt trong giao tế và hôn lễ của người Việt Nam với:
Miếng trầu là đầu câu chuyện.
Trầu héo rượu lạt.
Trầu cau là nghĩa,
Thuốc xỉa là tình.
Trầu cũng có vai trò nhất định trong y học trị liệu. Tục nhuộm răng, ăn trầu phai dần với thời gian.
Rau càng cua không có ngoại hình giống trầu, lá lốt, hồ tiêu nhưng có hương vị cay nóng như lá trầu, lá lốt.
Vai trò của hồ tiêu trong thức ăn của loài người vẫn vững vàng như xưa. Tầm quan trọng và giá trị kinh tế của nó không được như xưa. Ngày nay ngoài các quốc gia Nam Á, Đông Nam Á tiêu có thể trồng ở bắc Úc Đại Lợi, hải đảo Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, vùng biển Caribbean, Nam Mỹ nhiệt đới. Đường Hương Liệu mặc nhiên bị xóa tên.
****
Trầu, tiêu lốt đều là thân thuộc của hồ tiêu. Chúng tôi có dịp nói qua về trầu Piper betle trong bài Trầu Cau trong art2all.net và Tiêu Lốt Piper longum trong bài Thảo Mộc Trị Ho Lao Trên Thế Giới cũng trong art2all.net. Trong bài viết này chúng tôi không lặp lại hai loài thảo mộc trên.
Người Anh dùng chữ pepper để chỉ những loài thảo mộc có vị cay. Ớt cay và được gọi là red pepper vì ớt chuyển sang màu đỏ khi chín đối lại với black pepper là hồ tiêu vì hột tiêu khô màu đen. Trong cách gọi tên thảo mộc thông thường của người Anh có rất nhiều chữ pepper mặc dù không liên hệ gì đến hồ tiêu và gia đình Piperaceae ngoại trừ vị cay nồng.
RAU CÀNG CUA
Peperomia pellucida
Peperomia hymenophylla
Peperomia exigua
Peperomia translucent
Piper pellicudum
Gia đình: Piperaceae
Rau càng cua là một loại xà- lách- son (Cresson- watercress) ở miền nhiệt đới và bán nhiệt đới trên thế giới. Đó là một loại rau mọc hoang cao từ 15- 30 cm; thân mềm, mọng nước màu trắng đục, có nhiều nhánh. Ở Nam Mỹ rau càng cua có thể cao đến 1 m. Lá rau càng cua màu xanh tươi hình trái tim. Hoa mọc thẳng, có nhiều hột nhỏ bám trên nhụy hoa tựa như gai. Khi già hột chuyển sang màu đen.
Rau càng cua thường mọc trong bóng mát trong các bụi tre, hay ở vùng ẩm ướt, đầm lầy. Đó là thức ăn rẻ tiền nhưng ngon, bổ dưỡng và cũng là một loại rau hoang có nhiều dược tính được nghiên cứu rất nhiều. Rau càng cua có vị cay nồng của mustard (hột cải vàng cay nồng để ăn với mì) hay wasabi mà người Nhật dùng để ăn sushi.
Tên thông dụng của rau càng cua là:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Rau càng cua; Hồ tiêu thảo (Hán- Việt) |
Trung Hoa |
Cao hujiao (Thảo hồ tiêu) |
Anh |
silver bush, shiny bush (màu bạc của rau càng cua), rat’s ear (hình dạng của lá), pepper elder. |
Nhật |
Usuba suna kosho |
Brazil |
Coraçãozinho (trái tim nhỏ) |
Mã Lai |
Ketampangan |
Thái Lan |
Phak krasang |
Sanskrit (Phạn) |
Toyakandha; Varshaboo |
Rau càng cua có sesquiterpenes, carotol C15 H26 O, acacetin C16 H12 O5, apigenin C15 H10 O5, pellucidatin, physterols, arylpropanoids, peperomin C22 H20 O8 (có khả năng trị ung thư phổi). Rau càng cua kháng viêm, kháng nấm, kháng trùng Baccillus subtilis, Pseudomonas aeruginosa, Staphylococcus aureus.
Rau càng cua có nhiều công dụng trị liệu trong y học dân gian ở Nam Á, Đông Nam Á và Nam Mỹ. Nó dùng để trị đau bụng, mệt mỏi, u chốc trên đầu, ti thấp (gout- thống phong), suy thận, nhức đầu, đau tuyến tiền liệt, cao huyết áp.
Ở Brazil rau càng cua được dùng để hạ.
Ở Nam Mỹ rau càng cua được dùng để làm giảm acid C5 H4 N4 O3, trị bịnh ngoài da v.v.
Ở Việt Nam rau càng cua được dùng làm rau cải, làm gỏi rau càng cua với bưởi, thơm, bông mít với nước mắm chanh, tỏi, ớt, đường. Nếu có tôm, thịt thì nó trở thành cải xà lách son của miền nhiệt đới. Rau càng cua được dùng để trị nhức đầu và gây hưng phấn. Nó không có độc chất nhưng dùng nhiều có thể gây ra bịnh suyển.
LÁ LỐT
Piper lolot
Piper sarmentosum
Gia đình: Piperaceae
Lá lốt hay lá lốp là một loại thảo mộc miền nhiệt đới, thân thuộc gần của trầu và hồ tiêu. Lá lốt giống lá hồ tiêu về hình dáng (trái tim) lẫn màu sắc so với lá trầu hình trái tim nhưng màu xanh- vàng. Các tài liệu thực vật học của Hoa Kỳ biết đến lá lốt qua người Việt Nam tỵ nạn ở Hoa Kỳ sau năm 1975. Nhiều tài liệu cho rằng Việt Nam là sinh quán của lá lốt. Thực tế lá lốt có nhiều ở Nam Á và Đông Nam Á. Nó được dùng trong nhà bếp Việt Nam, Thái Lan, Lào, Khmer, Mã Lai, Indonesia. Thịt bò nướng với lá lốt là món ăn được ưa thích của người Việt Nam. Thịt bò nướng lá lốt phải ăn với mắm nêm.
Cây lá lốt cao từ 50- 60 cm; lá hình trái tim màu xanh sẫm. Mặt trên của lá láng, như có dầu. Các gân lá ở mặt dưới có lông mịn. Lá vò nát có mùi cay nồng. Hoa nhẵn nhụi. Trái tròn, nhỏ. Trong các vườn măng cụt ở Bình Nhâm, An Sơn, Hưng Định trong quận Lái Thiêu có nhiều cây lá lốt do chim ăn trái và phóng thải hột.
Tên khoa học của lá lốt (lá lốp) là Piper lolot (xem tên khác trên tựa) thuộc gia đình Piperaceae của hồ tiêu. Chữ lốt có thể do âm cuối chữ LOLOT mà ra. Người miền Nam âm thành LỐP. Người Lào gọi là phat I leut. Tên gọi thông thường là:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Lá lốt, Lá lốp |
Anh |
lolot, wild betel (trầu rừng), lolot pepper, Chaa-plu (Gọi theo Thái Lan) |
Pháp |
poivre lolot |
Lào |
Phat I Leut |
Thái Lan |
Chaa phulu |
Mã & Indonesia |
Kaduk v.v |
Lá lốt có naringenin C15 H12 O5 kháng viêm, kháng oxy hóa. Hoạt chất trong trái lá lốt có acid amide có khả năng diệt trùng lao (TB), trùng sốt rét. Lá lốt được dùng để trị: tê thấp, nhức đầu, đau răng, làm thuốc đắp, kháng viêm, lợi phế, trị ho lao, tiểu đường. Các nhà khoa học Indonesia quan tâm đến khả năng trị liệu của lá lốt. Lá lốt đang được nghiên cứu xem có khả năng trị ung thư gan có kết quả không.
HỒ TIÊU
Piper nigrum
Piper longum
Gia đình: Piperaceae
Chúng tôi cho tiêu sọ và tiêu lốp vào tựa đề Hồ Tiêu. Đó là một loại dây leo miền nhiệt đới và bán nhiệt đới có trái tròn nhỏ (tiêu sọ) hay trái dài (tiêu lốt). Ấn Độ, Indonesia, Mã Lai, Việt Nam, Cambodia là những quốc gia trồng nhiều hồ tiêu.
Tên khoa học của hồ tiêu là nigrum (nigrum: đen) thuộc gia đình aceae. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Tiêu, hồ tiêu (Hồ: rợ Hồ .<.ám chỉ các dân tộc ngoài Trung Hoa.>., tiêu: tiêu hóa), tiêu sọ |
Anh |
Black pepper |
Pháp |
poivre |
Ấn Độ |
Kaalee mirch |
Trung Hoa |
Hujiao (Hồ Tiêu) |
Ấn Độ đã dùng hồ tiêu vào việc nấu nướng và làm thuốc vào năm 2000 trước Tây Lịch. Người ta tìm thấy dấu vết của hột tiêu trong lỗ mũi của vua Ai Cập, Ramses II (1303- 1213 trước Tây Lịch), trong cổ mộ. Từ Á Châu hồ tiêu đến Hy Lạp khoảng thế kỷ thứ IV trước Tây Lịch. Đế quốc La Mã truyền bá việc dùng hồ tiêu trong đế quốc trên lục địa Âu Châu. Đến thế kỷ XVI người Âu Châu để ý nhiều đến hương liệu ở Nam Á và Đông Á như đã để ý đến tơ lụa của Trung Hoa.
Phạm Đình Lân (theo art2all.net)
Được canh tác trong một vùng đất phù sa cù lao bằng phương pháp hoàn toàn tự nhiên, không phân thuốc hóa học và gần như ...
Nội dung sách có 09 chương: giới thiệu về tình hình sản xuất, tiêu thụ, nguồn gốc và phân bố; giống; đặc điểm ra hoa, phát triển trái; dinh ...
Không chỉ là loại chậu trồng đơn giản, tiện lợi (lắp ráp) mà tháp trồng rau hữu cơ còn là giải pháp 3 trong 1 - vừa là hệ thống xử lý giác ...
Dư lượng thuốc BVTV (thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh hại dùng trong nông nghiệp) là một trong những vấn đề nhức nhối và ...
Đối với các loại hoa trồng trong chậu tết thì thời gian sinh trưởng chỉ kéo dài hơn 2 tháng. Do đó, lượng dinh dưỡng đầy đủ và cân đối ngay ...
Đúc rút từ thành công thực tiễn! Hướng dẫn thực hành chi tiết! Quy trình kỹ thuật đầy đủ! Văn phong đơn giản dễ hiểu!